SÓNG SIÊU ÂM
Siêu âm một phương pháp thăm dò không chảy máu được sử dụng rộng rãi ngày nay, ngoài việc thăm dò cấu trúc của các tổ chức sống, thì còn ứng dụng trong việc siêu âm doppler trong thăm dò dòng chảy trong cơ thể nên được ứng dụng trong các chuyên khoa lớn hiện nay như: nội khoa, ngoại khoa chẩn đoán ,điều trị,….và đặt biệt phải nói đến là vật lý trị liệu- phục hồi chức năng
Sóng âm là loại sóng lan truyền theo chiều dọc, có nghĩa là cùng hướng với phương truyền sóng. Sóng âm chỉ truyền đi trong môi trường vật chất
Ta có sóng siêu âm khi tần số lớn hơn 20.000 chu kỳ/giây. Sóng siêu âm dùng trong y học có tần số 500.000 đến 3.000.000 chu kỳ/ giây, nhưng tần số 1.000.000 chu kỳ/giây thường được sử dụng nhất.
Sóng siêu âm hoạt động dựa trên một hiện tượng áp điện các tinh thể đặt biệt khi bị biến dạng cơ học nén hoặc dãn trên 2 mặt đối diện của tinh thể xuất hiện một điện tích trái dấu và làm xuất hiện một điện trường. Hiện tượng áp điện mang tính chất thuận nghịch, áp điện thuận các tinh thể chịu lực trên 2 mặt của tinh thể xuất hiện điện tích trái dấu nên thường áp dụng cho những máy thu hình ảnh siêu âm. Hiện tượng áp điện nghịch, các tinh thể chịu áp lực của điện trường bên ngoài biến dạng cơ học những máy phát siêu âm.Hiện tượng từ giảo là vật tác dụng của từ trường sẽ làm biến dạng cơ học.Từ giảo phát sinh sóng siêu âm bằng với từ trường bên ngoài
Máy siêu âm bao gồm 2 bộ phận: Bộ phận tạo ra dòng điện có tần số cao, đầu phát siêu âm. Đầu phát siêu âm thường áp dụng hiện tượng áp điện nghịch hoặc là từ giảo. Các máy siêu âm áp dụng hiện tượng áp điện nghịch thì phát nguồn siêu âm có tần số cao nhưng công suất thấp, còn các máy siêu âm áp dụng hiện tượng từ giảo thì phát ra nguồn siêu âm có tần số thấp nhưng công suất cao.
Sóng siêu âm điều trị tần số dao động 0,5MHZ-3MHZ , với bức sóng bước sóng 1 MHz sẽ là 1,5 mm và 3 MHz sẽ là 0,5 mm. Vận tốc của sóng khoảng 1500m giây-1 so với khoảng 350 m giây-1 trong không khí (sóng âm có thể truyền nhanh hơn trong môi trường đậm đặc hơn)
Sóng có tần số cao hơn sẽ bị hấp thụ nhanh hơn, nghĩa là khoảng cách bán trị ngắn hơn. Trong các mô cơ thể sóng siêu âm có tần số 1.000.000 chu kỳ/giây có khoảng bán trị 5cm, trong khi tần số 3.000.000 chu kỳ/giây có khoảng bán trị là 1,5 c
Siêu âm thì có 2 chế độ
+ Liên tục: cường độ duy trì liên tục trong suốt quá trình điều trị
+ Xung : có sự ngắt quảng xung 100% hoặc 20% tùy vào mục đích sử dụng , cơ thể sử dụng với cường độ cao nhưng không ảnh hưởng tới các tổ chức xương và đạt hiệu quả với tổ chức cơ học và hóa học khá cao. Chế độ này thường được sử dụng rộng rãi
Thời gian và liều lượng điều trị: Điều trị khoảng 7-10p lần ( tối đa 15p) tùy vào vùng và dạng bệnh lý. Nếu sử dụng siêu âm để kích thích quá trình lành xương thì có dài hơn và cường độ phù hợp. Số lần điều trị tùy thuộc vào bệnh lý, mục tiêu và theo chỉ định của bác sĩ.
Cường độ
-Cường < 0,3 w/cm2 là cường độ nhẹ.
-Cường độ 0,3-1,2 w/cm2 là cường độ trung bình.
- Cường độ 1,2-3 w/cm2 là cường độ mạnh.
Khoảng cách tác dụng còn phụ thuộc vào tần số sử dụng:
Tần số 1 Mhz tác dụng tốt nhất trong khoảng từ 5-8 cm dùng cho vùng nhiều mô mềm, mô cơ như vùng lưng. vùng mông, vùng đùi…
Tần số 3 Mhz tác dụng tốt nhất trong khoảng từ 1-3cm dùng cho vùng ít mô mềm như vùng cổ tay, bàn tay, ngón tay, lồi cầu…
Tác dụng sóng siêu âm
Tác dụng cơ học:
Trong phòng thí nghiệm, người ta nhận thấy rằng siêu âm có thể làm tăng tốc các phản ứng hoá học. Nhưng trong cơ thể, không có một chứng cớ nào rõ ràng cho thấy sự gia tăng phản ứng hóa học do tác dụng trực tiếp của siêu âm, ngoại trừ sự gia tăng này do tác dụng gián tiếp qua cơ chế sinh nhiệt của siêu âm.
Tác dụng hóa học:
Trong phòng thí nghiệm, người ta nhận thấy rằng siêu âm có thể làm tăng tốc các phản ứng hoá học. Nhưng trong cơ thể, không có một chứng cớ nào rõ ràng cho thấy sự gia tăng phản ứng hóa học do tác dụng trực tiếp của siêu âm, ngoại trừ sự gia tăng này do tác dụng gián tiếp qua cơ chế sinh nhiệt của siêu âm
Tác dụng nhiệt:
Nhiệt được phát sinh khi các mô cơ thể hấp thụ năng lượng của sóng siêu âm. Hiệu quả được nhận thấy ở mặt phân cách giữa các mô như giữa mô mỡ, mô cơ và ở màng ngoài xương. Nhiệt do siêu âm phát sinh cũng có tác dụng sinh lý tương tư như của các nguồn nhiệt khác. Nó làm gia tăng hoạt động của tế bào, dãn mạch, gia tăng tuần hoàn, gia tăng chuyển hóa và quá trình đào thải, và giải quyết được hiện tượng viêm.
Tác dụng sinh lý và trị liệu:
Sóng siêu âm là dao động có áp lực theo chiều dọc. Sóng siêu âm không lan truyền từ một điểm ra xung quanh như âm nghe thấy, mà nó lan truyền dưới hình thức một bó sóng
Tác dụng trực tiếp của nó chỉ thấy được trong phạm vi của bó sóng dày đặc ở phía dưới của đầu biến năng. Điều này nói lên tính chất quan trọng của việc điều trị tại chỗ đối với các quá trình bệnh lý.
Tác dụng giảm đau:
Cơn đau có thể giảm bớt do sử dụng siêu âm. Mặc dầu một phần hiệu quả này là nhiệt, những có lẽ là do một vài cơ chế khác như tác dụng trực tiếp lên đầu dây thần kinh. Sự giảm đau có thể có khi sử dụng dòng xung siêu âm với cường độ thấp mà hiệu quả sinh nhiệt là không đáng kể.
Ứng dụng trong siêu âm:
Siêu âm có ưu điểm hơn trong các trường hợp sau.
- Chấn thương và tình trạng viêm: Gia tăng sự cung cấp máu giúp cho mô mau lành và hiệu quả tương tự có thể được áp dụng trong những tình trạng viêm như viêm bao khớp, viêm hoạt dịch và viêm gân.
- Siêu âm có nhiều hiệu quả hơn các phương pháp nhiệt khác đối với xương và khớp, đặc biệt là trong trường hợp viêm cột sống dính khớp.
- Điểm đặc biệt trong siêu âm có hiệu ứng tạo lỗ chính vì điều nay nên siêu âm làm tránh kết dính mô sẹo rất tốt. Ngoài ra còn ứng dụng diệt các khối u y trong não, chùm siêu âm hội tụ phá sỏi trong đường tiết niệu và đường mật
- Ứng dụng siêu âm nhiệt trong giai đoạn viêm này ảnh hưởng đến khả năng mở rộng collagen và hoạt động của enzyme và do đó cũng cải thiện độ bền kéo của mô lành .
- Áp dụng siêu âm vào vùng quanh vết thương sẽ kích thích giải phóng các yếu tố tăng trưởng cần thiết để tái tạo tế bào biểu mô, bảo vệ cơ thể khỏi bị nhiễm trùng và phục hồi tính toàn vẹn của da.
Chỉ định:
Chỉ định trong các bệnh co thắt cơ do thần kinh:
Co thắt phế quản: hen phế quản, viêm phế quản co thắt.
Co thắt các mạch máu ngoại vi: hội chứng Reynaud.
Co thắt cơ do đau, lạnh.
Đau do phản xạ thần kinh, viêm dây thần kinh.
Các bệnh có nguyên nhân giảm dinh dưỡng chuyển hóa:
Các chấn thương sau 3 ngày, các vùng sẹo xấu kém nuôi dưỡng.
Các vùng sưng nề do chấn thương giai đoạn hấp thu dịch nề, do các ổ viêm cũ.
Làm mềm sẹo
Chống chỉ định:
Sóng siêu âm không được dùng để điều trị các mô đặc biệt như mắt, tai, buồng trứng, dịch hoàn.
Sóng siêu âm có thể có ảnh hưởng xấu lên não bộ và tủy sống, hạch giao cảm, các đầu xương còn tăng trưởng.
Không được áp dụng lên phụ nữ mang thai.
Nếu tuần hoàn kém thì tai biến giống như những tác nhân điều trị bằng nhiệt khác. Nếu cần thiết thì sử dụng siêu âm với cường độ thấp.
Siêu âm cũng không được dùng cho các bướu tân sinh (ung thư) để tránh di căn; cũng không sử dụng cho các nơi nhiễm trùng vì có thể làm sự nhiễm trùng lan rộng
Các phương thức siêu âm:
Siêu âm dẫn thuốc: Dưới tác dụng của siêu âm làm tăng tính thấm và khuếch tán của các ion qua các màng bán thấm. Người ta pha các thuốc vào chất tiếp xúc giữa đầu phát siêu âm và da rồi dùng siêu âm để đưa thuốc vào tại chỗ. Các ion thuốc được đẩy vào và tích lũy lại ở biểu bì và khuếch tán dần vào cơ thể giống như làm điện di ion thuốc bằng dòng điện một chiều. Các thuốc thường dùng là kem hydrocortisol, kem kháng sinh, kem profenide, salicylat…
Siêu âm trong nước: Nước là một môi trường dẫn truyền âm tốt, người ta thường dùng thùng, chậu hay bể đựng nước sạch có nhiệt độ thích hợp, bộ phận điều trị và đầu phát siêu âm đều phải ngập trong nước. Đầu phát siêu âm để vuông góc với mặt da vùng điều trị, cách mặt da khoảng 1 – 5cm. Siêu âm qua nước có ưu điểm là tận dụng được năng lượng siêu âm, nhưng kỹ thuật phức tạp hơn nên thường chỉ sử dụng cho những vùng điều trị không bằng phẳng mà sử dụng kỹ thuật tiếp xúc trực tiếp khó khăn như các ngón tay, ngón chân, khớp cổ tay, cổ chân.
Siêu âm trên bề mặt da qua gel, dầu, vaselin: Đặt đầu phát siêu âm tiếp xúc trực tiếp với da. Không khí có hệ số hấp thu siêu âm rất lớn nên chỉ cần một lớp không khí mỏng ngăn cách giữa đầu phát siêu âm với da cũng hấp thu gần hoàn toàn siêu âm. Vì vậy, giữa đầu phát siêu âm và da cần có một môi trường trung gian dẫn truyền siêu âm. Người ta thường dùng một chất gel, dầu, vaselin… làm chất trung gian giữa đầu phát siêu âm và da để triệt tiêu lớp không khí giữa đầu phát và da. Kỹ thuật tiếp xúc trực tiếp đơn giản, dễ làm, thường được dùng ở những vùng bề mặt da tương đối phẳng, dễ tiếp xúc.
Trên thị trường hiện này có rất nhiều hãng, và cũng rất nhiều dòng máy siêu âm khác nhau để đánh giá hiệu quả trị liệu, tính an toàn, chất lượng sản phẩm, độ bền, chi phí bảo trì sữa chữa, thay thế cũng như những tính năng hỗ trợ người dùng.
Tại PhaNa có cung cấp chủng loại từ cao cấp đến phổ thông. Rất nhiều hãng lớn trên thế giới, với nhiều chủng loại khác nhau , cũng như các loại có phổ thông chi phí thấp. Quý Bác sĩ/KTV cũng như bệnh nhân quan tâm xin liên hệ PhaNa để được tư vấn và mua hàng phù hợp.
HỆ THỐNG PHANA
Hotline: Tư vấn chuyên môn và quản lý bán hàng 0907087978
phana@phana.com.vn - phanaco@gmail.com
Showroom 1: 1A Lý Thường Kiệt, P.7, Q. Tân Bình, HCM.
(028) 3971 4034 - bấm line 1 - hoặc 0852500099
Showroom 2: 70 Bà Huyện Thanh Quan, P.7, Q.3, HCM.
(028) 3971 4034 - bấm line 2 - hoặc 0839500099
Nhà máy: 79/65 ĐHT 10B, P Đông Hưng Thuận, Q.12, TP.HCM.
(028) 3971 4034 - ext: 301
Văn phòng Chính: 124/93 Phan Huy Ích, P.15, Q.Tân Bình, HCM.
028.39714.034 - 0707500099